Lịch sử Lục_quân_Hoa_Kỳ

Nguồn gốc

Tấn công đồn số 10 trong trận bao vây Yorktown.

Lục quân Lục địa được Quốc hội Lục địa thành lập vào ngày 14 tháng 6 năm 1775 với vai trò là quân đội thống nhất của mười ba thuộc địa chống lại Vương quốc Anh. Khi đó George Washington được bổ nhiệm làm tư lệnh của đội quân thống nhất này.[1] Lục quân ban đầu do các quân nhân phục vụ trong Lục quân Anh hay các dân quân thuộc địa. Những người này đã mang theo di sản quân đội Anh cùng với họ khi gia nhập Lục quân Lục địa. Khi Chiến tranh Cách mạng Mỹ đang tiến triển thì Lục quân Lục địa nhận được sự trợ giúp và tiếp liệu cũng như học thuyết của Pháp nên có phần ảnh hưởng đến lực lượng này. Sự trợ giúp của Phổ và các huấn luyện viên Phổ như Friedrich Wilhelm von Steuben cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với Lục quân Lục địa.

George Washington đã sử dụng chiến lược Fabian (tránh đối đầu trực tiếp, từng bước tiêu hao lực lượng địch), chiến thuật đánh và rút nhằm vào nơi yếu điểm nhất của địch để tiêu hao các lực lượng Anh và đồng minh đánh thuê của họ. Washington đã dẫn dắt lục quân chiến thắng chống lại người Anh tại các trận TrentonPrinceton, và rồi quay trở về miền nam. Với chiến thắng có tính quyết định tại trận bao vây Yorktown và sự giúp đỡ của người Pháp, Tây Ban Nha, và Hà Lan, Lục quân Lục địa toàn thắng trước người Anh. Theo Hiệp định Paris (1783), nền độc lập của Hoa Kỳ được công nhận.

Sau chiến tranh, Lục quân Lục địa nhanh chóng bị giải tán vì người Mỹ không tin tưởng vào quân đội hiện có mà thay vào đó quân dân từ các tiểu bang trở thành lực lượng bộ binh duy nhất của quốc gia mới, trừ một trung đoàn được giữ lại để bảo vệ vùng Lãnh thổ Tây Bắc và một đại đội pháp binh bảo vệ kho vũ khí ở West Point. Tuy nhiên vì xung đột tiếp tục xảy ra giữa Hoa Kỳ và người bản thổ Mỹ nên Hoa Kỳ nhận thấy rằng một lục quân hiên dịch được huấn luyện là điều cần thiết. Đơn vị đầu tiên là Lê Dương Hoa Kỳ, được thành lập vào năm 1791.

Thế kỷ XIX

Trận Gettysburg, bước ngoặt của Nội chiến Hoa Kỳ

Chiến tranh năm 1812 là cuộc chiến thứ hai và cũng là cuối cùng của người Mỹ chống lại người Anh nhưng không thành công bằng Chiến tranh Cách mạng Mỹ trước kia. Một cuộc xâm nhập vào Canada bị thất bại và quân đội Hoa Kỳ không thể ngăn cản được người Anh hỏa thiêu thủ đô mới của Hoa Kỳ vào lúc đó là Washington, D.C.. Tuy nhiên, Lục quân chính quy dưới quyền của các vị tướng Winfield ScottJacob Brown đã chứng tỏ được sự chuyên nghiệp của họ và có thể đánh bại quân đội Anh trong Chiến dịch Niagara vào năm 1814. Hai tuần sau khi một hiệp ước được ký kết, Andrew Jackson đã đánh bại cuộc xâm nhập New Orleans của người Anh. Tuy nhiên cuộc chiến thắng này không có ảnh hưởng lớn vì hiệp ước đã bắt buộc hai bên trở về vị trí ban đầu của mình.

Giữa năm 1815 và 1860, tinh thần của cái gọi là Vận mệnh hiển nhiên trở nên quen thuộc tại Hoa Kỳ và khi người định cư Mỹ di chuyển về phía tây thì Lục quân Hoa Kỳ lại phải đối phó với một loại các vụ tập kích và trận đánh để chống lại người bản thổ Mỹ trong khi những người thực dân Mỹ đã làm lật tung nơi ăn chốn ở của họ. Lục quân Hoa Kỳ cũng phải chiến đấu trong Chiến tranh Mỹ-México (1846–1848). Đây là sự kiện mang tính định đoạt đối với cả hai quốc gia.[5] Sự chiến thắng của người Mỹ đã thu về cho Hoa Kỳ một vùng lãnh thổ rộng lớn mà sau này trở thành toàn bộ hay một phần của các tiểu bang California, Nevada, Utah, Colorado, Arizona, WyomingNew Mexico.

Nội chiến Hoa Kỳ là cuộc chiến đắt giá nhất thời kỳ này. Sau khi đa số các tiểu bang miền nam ly khai và thành lập liên minh miền Nam Hoa Kỳ, Lực lượng miền nam nổ súng tấn công lực lượng miền bắc và khởi sự cuộc nội chiến tại Đồn SumterCharleston, Nam Carolina. Trong khoảng thời gian hai năm đầu nội chiến, lực lượng miền nam thắng đậm Lục quân Hoa Kỳ nhưng sau các trận đánh có tính quyết định tại Gettysburg ở miền đông và Vicksburg ở miền tây cùng với sức mạnh siêu đẳng về quân số cũng như công nghệ quân đội liên bang đã thực hiện một chiến dịch thần sầu vượt qua lãnh thổ của phe miền nam và cuộc nội chiến kết thúc khi phe miền nam đầu hàng vào tháng 4 năm 1865. Theo con số điều tra dân số năm 1860, có đến 8% nam người Mỹ da trắng tuổi từ 13 đến 43 chết trong cuộc chiến này trong đó khoảng 6% ở miền bắc và 18% ở miền nam.[6]

Sau nội chiến, Lục quân Hoa Kỳ đánh một cuộc chiến kéo dài với người bản thổ Mỹ vì người bản thổ Mỹ chống lại việc người Mỹ mở rộng lãnh thổ vào bên trong giữa lục địa Bắc Mỹ. Vào thập niên 1890, Hoa Kỳ trở thành một nhân tố tầm cỡ quốc tế khi Hoa Kỳ thắng cuộc trong Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha và thắng cuộc chiến gây tranh cãi và ít biết đến hơn là Chiến tranh Mỹ-Philippines cũng như sự can thiệp của Hoa Kỳ vào châu Mỹ Latincuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn.

Thế kỷ XX

Binh sĩ thuộc Sư đoàn Bộ binh 89 thuộc Lục quân Hoa Kỳ vượt sông Rhine bằng tàu, năm 1945.

Năm 1910, Quân đoàn Truyền tin Hoa Kỳ trực thuộc Lục quân Hoa Kỳ (U.S. Signal Corps) mua và sử dụng các phi cơ đầu tiên cho Lục quân Hoa Kỳ, đó là các phi cơ có cánh hai tầng Wright Type A.[7] Hoa Kỳ tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất vào năm 1917 bên cạnh Vương quốc Anh, Pháp, và Nga. Quân đội Hoa Kỳ được đưa đến mặt trận và tham gia vào cuộc tấn công mà cuối cùng đã phá vỡ được các phòng tuyến của Đức. Khi hiệp ước đình chiến được ký kết ngày 11 tháng 11 năm 1918 thì Lục quân Hoa Kỳ một lần nữa bị cắt giảm lực lượng.

Hoa Kỳ tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai sau khi Đế quốc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Tại chiến trường châu Âu, các lực lượng thuộc Lục quân Hoa Kỳ đã hình thành nên một bộ phận nổi bật của các lực lượng chiếm Bắc PhiSicilia. Vào ngày mà ngày nay gọi là D-Day và sau đó là giải phóng châu Âu và đánh bại Phát xít Đức thì đã có đến hàng triệu binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ đóng vai trò trung tâm của lực lượng đồng minh. Tại mặt trận Thái Bình Dương, các binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ đã cùng với Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tham gia vào chiến dịch tấn công chớp nhoáng vào các hải đảo để giành lấy từng đảo này từ tay của Đế quốc Nhật Bản. Sau khi phe trục đầu hàng vào tháng 5 (Đức) và tháng 8 (Nhật) năm 1945, binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ được triển khai để chiếm đóng hai quốc gia bại trận là Nhật và Đức. Hai năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Không lực Lục quân Hoa Kỳ được tách ra khỏi Lục quân Hoa Kỳ và trở thành Không lực Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 9 năm 1947 sau nhiều thập niên tìm cách tách ra khỏi lục quân. Vào năm 1948, Lục quân Hoa Kỳ cũng chấm dứt việc tách ly chủng tộc trong quân đội.

Tuy nhiên, cuốiChiến tranh thế giới thứ hai cũng là thời điểm sinh ra sự đối đầu giữa Đông và Tây mà được biết đến với tên gọi Chiến tranh lạnh. Với sự kiện nổ ra Chiến tranh Triều Tiên, mối quan tâm đến sự phòng thủ Tây Âu phát sinh. Hai quân đoàn, V và VII, được tái phối trí hoạt động dưới quyền của Lục quân 7 Hoa Kỳ vào năm 1950. Lực lượng của Hoa Kỳ tại châu Âu gia tăng từ một sư đoàn lên đến bốn sư đoàn. Hàng trăm ngàn binh sĩ đóng quân Tây Đức cùng với một số khác ở Bỉ, Hà Lan, Vương quốc Anh cho đến thập niên 1990 nhằm ngăn chăn một cuộc tấn công có thể có của Liên Xô.

Binh sĩ thuộc Sư đoàn Bộ binh số 2 đang chốt giữ một khẩu súng máy trong Chiến tranh Triều Tiên

Trong Chiến tranh lạnh, các binh sĩ Mỹ và đồng minh đã chiến đấu chống các lực lượng cộng sản tại Triều Tiên và Việt Nam (xem Thuyết Domino). Chiến tranh Triều Tiên xảy ra vào năm 1950 khi Liên Xô rời bỏ phòng họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và vì thế đã bỏ mất quyền phủ quyết có thể có của họ. Dưới cây dù của Liên Hiệp Quốc, hàng trăm ngàn binh sĩ của Hoa Kỳ đã tham chiến để ngăn cản Bắc Triều Tiên chiếm Nam Triều Tiên và rồi sau đó xâm nhập vào lãnh thổ miền bắc. Sau nhiều lần tiến thoái của cả hai bên và Trung Quốc nhảy vào vòng chiến thì một cuộc ngưng bắn được tuyên bố, kêu gọi hai bên rút về vị trí mà đã được tạo ra vào năm 1953.

Một toán bộ binh Hoa Kỳ đang tấn công một vị trí ở Đắk Tô trong Chiến dịch Hawthorne, Chiến tranh Việt Nam

Chiến tranh Việt Nam thường được xem như một điểm thấp trong hồ sơ lịch sử của Lục quân Hoa Kỳ vì việc sử dụng các binh sĩ bị bắt buộc thi hành quân dịch, thiếu sự ủng hộ chiến tranh của dân chúng Mỹ và những hạn chế gây bức xúc bị áp đặt cho Lục quân Hoa Kỳ từ các nhà lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ (thí dụ như không có cuộc xâm nhập nào của bộ binh được tiến hành vào lãnh thổ của Bắc Việt). Trong lúc các lực lượng Mỹ đóng quân tại Việt Nam Cộng hòa từ năm 1959 với vai trò tình báo, huấn luyện và cố vấn thì họ vẫn chưa triển khai quân với số lượng lớn mãi cho đến năm 1965, sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Các lực lượng Mỹ thiết lập và kiểm soát hữu hiệu chiến trường "truyền thống" nhưng họ lại phải đối phó với các chiến thuật đánh và rút của Quân Giải phóng miền Nam Việt NamQuân đội Nhân dân Việt Nam. Về cấp chiến thuật, các binh sĩ Mỹ không thua một trận chiến tầm cỡ nào.[8] Thí dụ trong trận công kích Tết Mậu Thân năm 1968, Lục quân Hoa Kỳ đã chuyển được tình thế từ bị tấn công thành phản công gây thiệt hại nặng cho các lực lượng Cộng sản tại miền Nam Việt Nam. Chính do kết quả này mà sau đó, đa số các trận đánh lớn khác của Lục quân Hoa Kỳ chỉ xảy ra với lực lượng quân đội chính quy của miền Bắc được bổ sung vào với danh nghĩa Quân giải phóng miền Nam. Tuy nhiên, cuối cùng, sự phản chiến của giới chính trị trong nước buộc Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1973. Năm 1975, Việt Nam thống nhất dưới một chính phủ cộng sản.

Năm 1967, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara quyết định rằng 15 sư đoàn của Lực lượng Vệ Binh Quốc gia là không cần thiết và cắt giảm 8 sư đoàn bao gồm 1 sư đoàn Bộ Binh Cơ Giới, 2 sư đoàn Thiết Giáp và 5 sư đoàn Bộ Binh nhưng tăng số lượng lữ đoàn từ 7 lên 18 gồm 1 lữ đoàn Nhảy Dù, 1 lữ đoàn Thiết Giáp, 2 lữ đoàn Bộ Binh Cơ Giới và 14 lữ đoàn Bộ Binh.

Chính sách tổng lực lượng được Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ là Đại tướng Creighton Abrams đưa ra sau Chiến tranh Việt Nam là coi ba thành phần của Lục quân Hoa Kỳ – Lục quân Chính quy, Lục quân Vệ binh Quốc gia và Lục quân Trừ bị là một lực lượng đơn độc.[9] Vì tin rằng không có một vị Tổng thống Hoa Kỳ nào có thể đưa Hoa Kỳ (và đặc biệt hơn là Lục quân Hoa Kỳ) vào chiến tranh mà không có sự ủng hộ của dân chúng Mỹ nên đại tướng Abrams kết hợp cơ cấu tổ chức ba thành phần của Lục quân Hoa Kỳ theo cái cách khiến cho các hoạt động quân sự kéo dài không thể nào thực hiện được mà không có sự tham gia của cả Lục quân Vệ binh Quốc gia và Lục quân Trừ bị.

Thập niên 1980 là một thập niên tái tổ chức của Lục quân. Lục quân đã biến đổi lực lượng thành lực lượng toàn binh sĩ tình nguyện phục vụ với điểm nhấn là huấn luyện và sử dụng kỹ thuật. Đạo luật Goldwater-Nichols năm 1986 tạo nên các Bộ tư lệnh Chiến đấu Thống nhất (unified combatant command), đưa Lục quân Hoa Kỳ cùng với bốn quân chủng khác nằm dưới các cơ cấu chỉ huy theo vị trí địa lý và thống nhất. Lục quân cũng đóng một vai trò trong cuộc xâm nhập Grenada năm 1983 (Chiến dịch Urgent Fury) và Panama năm 1989 (Chiến dịch Just Cause).

Năm 1989 nước Đức thống nhất và Chiến tranh lạnh kết thúc. Các nhà lãnh đạo lục quân thực hiện một kế hoạch cắt giảm quân số. Đến tháng 11 năm 1989 các nhà phác thảo quân sự của Ngũ Giác Đài trình lên một kế hoạch nhằm cắt giảm 23% lực lượng thuộc Lục quân Hoa Kỳ từ 750.000 xuống còn 580.000.[10] Một số sáng kiến giảm quân số được đưa ra như việc cho hồi hưu sớm được sử dụng. Năm 1990 khi Iraq xâm lược quốc gia nhỏ bé lân cận là Kuwait, các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ do Sư đoàn Dù 82 lãnh đạo, nhanh chóng triển khai binh sĩ nhằm bảo vệ Ả Rập Xê Út. Tháng 1 năm 1991 Chiến dịch Bảo Sa mạc bắt đầu, lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo khai triển trên 500.000 binh sĩ, đa số từ các lực lượng thuộc Lục quân Hoa Kỳ cho đến khi Iraq bị đánh bật khỏi lãnh thổ Kuwait. Chiến dịch kết thúc bằng sự toàn thắng đối với Lục quân khi các lực lượng liên quân phương Tây đánh bật Quân đội Iraq trong chỉ một trăm giờ.

Sau Chiến dịch Bão Táp Sa mạc, Lục quân Hoa Kỳ không gặp một chiến dịch quân sự lớn nào cho hết thập niên 1990. Các đơn vị của lục quân tham gia vào một số hoạt động gìn giữ hòa bình như ở Somalia năm 1993, nơi đã diễn ra Chiến dịch Gothic Serpent truy quét các chỉ huy cấp cao của quân nổi dậy Somali đang chiếm giữ thủ đô Mogadishu đã khiến cho 18 lính Biệt Động Quân, đặc nhiệm Delta và Trung đoàn 160 Không Vận Đặc Biệt tử trận cùng với hơn 100 lính đặc nhiệm khác bị thương, sau đó các lực lượng quốc tế rút bỏ khỏi quốc gia này. Lục quân cũng góp binh sĩ vào lực lượng gìn giữ hòa bình tại Nam Tư vào cuối thập niên 90.

Thế kỷ XXI

Binh sĩ Hoa Kỳ và Iraq tuần tra biên giới tại Iraq.

Sau sự kiện 11 tháng 9, và như là một phần của cuộc Chiến tranh chống khủng bố toàn cầu, các lực lượng kết hợp của Hoa Kỳ và Tổ chức Liên phòng Bắc Đại Tây Dương xâm chiếm Afghanistan vào 2001, lật đổ chính phủ Taliban.

Lục quân Hoa Kỳ tham gia vào cuộc xâm chiếm phối hợp giữa Hoa Kỳ và đồng minh vào Iraq năm 2003. Những năm theo sau đó, sứ mệnh của cuộc xâm chiếm này thay đổi từ xung đột vũ trang giữa các quân đội chính quy sang chống chiến tranh du kích. Có một con số lớn các vụ tấn công tự sát đã khiến cho Hoa Kỳ tổn thất hơn 4.000 binh sĩ (tính đến tháng 3 năm 2008) và làm bị thương hàng ngàn binh sĩ khác.[11] Vì bất ổn tại Iraq nên Hoa Kỳ đã phải khai triển dài hạn lực lượng Lục quân chính quy cũng như các lực lượng vệ binh quốc gia và trừ bị.

Kế hoạch hiện đại hóa chính của Lục quân Hoa Kỳ là chương trình FCS (future combat systems có nghĩa là Hệ thống chiến đấu tương lai). Nhiều hệ thống đã bị hủy bỏ và phần còn lại được đưa vào chương trình hiện đại hóa BCT (brigade combat team có nghĩa là Đội ngũ chiến đấu lữ đoàn).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lục_quân_Hoa_Kỳ http://www.defencetalk.com/news/publish/army/Army_... http://www.futuresoldiers.com http://www.harvardmagazine.com/on-line/050155.html http://www.law.cornell.edu/uscode/usc_sec_10_00003... http://www.arcent.army.mil/welcome/cg_site/cg.asp http://www.armyg1.army.mil/HR/docs/demographics/FY... http://www.arng.army.mil/constitution.aspx http://www.history.army.mil/books/Lineage/mi/ch2.h... http://www.hqusareur.army.mil/institution/Leaders/... http://www.sddc.army.mil/Public/Home/About%20SDDC/...